Một số dự án điện IPP ‘chưa xác định được thời gian vận hành’ tại Việt Nam

Cập nhật về tình hình triển khai các dự án nguồn điện của Việt Nam được đầu tư theo hình thức IPP (dự án điện độc lập) dưới đây của Tạp chí Năng lượng Việt Nam cho thấy: Tất cả các dự án đều chậm tiến độ nhiều năm, đặc biệt có dự án “chưa thể xác định được thời gian vận hành”.

1/ Dự án Nhiệt điện Công Thanh - Thanh Hóa (1 x 600 MW):

- Theo tiến độ của quy hoạch điện VII (điều chỉnh), dự án Nhiệt điện Công Thanh được đưa vào vận hành năm 2020. Tuy nhiên, dự án chậm tiến độ 3 năm (thời gian dự kiến vận hành tin cậy lùi sang tháng 1/2023).

- Tính đến thời điểm hiện tại, dự án đã giải phóng mặt bằng (GPMB) diện tích 59/62,37 ha diện tích đất nhà máy chính, đạt gần 95%; hoàn thành công tác GPMB trên 98% diện tích khu cảng chuyên dụng (22,5 ha); đã ký hợp đồng thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 52,87 ha.

- Cùng với đó là hoàn thành san lấp mặt bằng nhà máy (phần diện tích được Ban Quản lý kinh tế Nghi Sơn quyết định cho thuê đất); hiện nhà thầu đang tiến hành san lấp mặt bằng, xây dựng bờ kè khu cảng chuyên dụng nhập than phục vụ cho nhà máy nhiệt điện.

- Đặc biệt, Tập đoàn Công Thanh (chủ đầu tư) đã ký hợp đồng tổng thầu EPC với Tập đoàn Điện lực Trung Nam (Trung Quốc). Hiện tổng thầu EPC đang tiến hành thiết kế chi tiết cho toàn bộ các hạng mục công trình của dự án (nhà máy chính, trạm bơm nước làm mát, hệ thống đường ống cấp, thải nước làm mát, cảng chuyên dụng nhập than, hệ thống băng tải cấp than).

2/ Dự án Nhiệt điện An Khánh - Bắc Giang (650 MW):

- Theo tiến độ của quy hoạch điện VII (điều chỉnh) dự án này đi vào vận hành năm 2022 - 2023.

Tính đến nay, dự án đã hoàn thành các hạng mục phụ trợ của công trình và đường dây 35 kV, trạm biến áp (TBA) 400 kVA-35/0,4 kV và TBA 400 kVA-35/10 kV phục vụ thi công; dịch chuyển đường dây 35 kV nhánh Cẩm Lý 373, nhánh TBA thôn Dăm, đường dây 0,4 kV (sau TBA thôn Gốc Khế).

- Về công tác giải phóng mặt bằng, dự án này có tổng diện tích 89,7 ha, trong đó diện tích khu nhà máy chính đã thực hiện 41,75 ha/42,27 ha và đã chi trả bồi thường cho các hộ (với diện tích 2,15 ha/2,55 ha).

- Về chuyển mục đích sử dụng đất, hiện dự án đã nhận Quyết định về chuyển mục đích sử dụng đất (đợt 1), với diện tích 116.886,5 m2 và đang hoàn thiện thủ tục chuyển (đợt 2) cho dự án (với diện tích khoảng 12 ha).

- Theo nhìn nhận của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phát triển Điện lực, khó khăn lớn nhất của dự án Nhiệt điện An Khánh - Bắc Giang là thu xếp nguồn vốn đầu tư.

- Cụ thể, về vốn vay ngân hàng trong nước là không khả thi, còn vay nước ngoài (từ Ngân hàng Trung Quốc), tuy đàm phán đã được gỡ bỏ điều kiện bảo lãnh của Chính phủ, nhưng còn có các điều kiện khác - đó là Hợp đồng mua bán điện với sản lượng điện hợp đồng (Qc) bằng 90% sản lượng điện bình quân nhiều năm của dự án.

- Về vấn đề này, Thường trực Cơ quan Chỉ đạo Quốc gia về Phát triển Điện lực đề nghị Tập đoàn Điện lực Việt Nam xem xét phê duyệt Hợp đồng sửa đổi bổ sung (số 01) Hợp đồng mua bán điện của nhà máy theo Thông tư 21/2019/TT-BCT của Bộ Công Thương.

Mô hình dự án Nhà máy Nhiệt điện An Khánh - Bắc Giang.

3/ Dự án Thủy điện Hồi Xuân - Thanh Hóa (102 MW):

- Dự án này được khởi công xây dựng từ tháng 2/2017, theo tiến độ của quy hoạch điện VII (điều chỉnh), dự án sẽ đi vào vận hành 2020. Nhưng trên thực tế, dự kiến tiến độ phát điện tổ máy số 1 vào tháng 11/2020 và hoàn thành toàn bộ dự án vào tháng 1/2021 (chậm tiến độ hơn 2 năm).

- Hiện dự án đã hoàn thành các hạng mục xây dựng công trình chính; hoàn thành lắp đặt thiết bị cơ khí thủy công tuyến năng lượng, cống dẫn dòng thi công, lắp đặt thiết bị thủy lực và 3 bộ buồng tua bin, đổ bê tông chèn; thi công hoàn thành trạm phân phối 220 kV, đường dây 220 kV đấu nối. Riêng thi công thiết bị cơ khí thủy công đập tràn, mới chỉ đạt khoảng 40%.

- Về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, dự án này có 591 hộ dân phải di dời, trong đó còn 41 hộ chưa có vị trí nơi ở mới (do đang chờ đường tránh ngập để lựa chọn vị trí).

- Cạnh đó, các công trình đền bù, tránh ngập, có 31/31 công trình đã thực hiện khảo sát, thiết kế xây dựng, trong đó công trình đã thi công xây dựng, bàn giao đưa vào sử dụng là 5 công trình (đạt 16,13%); số công trình đang thi công xây dựng là 18 (chiếm 58,06% tổng số các công trình).

- Tuy nhiên, hiện dự án này đang gặp nhiều khí khăn do các thông số thực tế hiện nay đã thay đổi gần như toàn bộ so với các thông số nêu trong hợp đồng mua bán điện (PPA) ngày 17/5/2010. Cụ thể là tổng mức đầu tư xây dựng đã tăng lên rất nhiều, nên chủ đầu tư phải huy động bổ sung nguồn vốn.

4/ Dự án Thủy điện Pắc Ma (140 MW) và Thủy điện Nậm Củm 4 (54 MW) - Lai Châu:

- Dự án Thủy điện Pắc Ma được khởi công xây dựng từ cuối năm 2016. Theo tiến độ của quy hoạch điện VII (điều chỉnh) dự án sẽ đi vào vận hành 2019, nhưng nay lùi thời gian hoàn thành quý 2/2020.

- Hiện dự án Thủy điện Pắc Ma đã hoàn thành thi công các hạng mục phụ trợ, lán trại, cầu tạm, đường thi công (bờ phải) khu vực công trình đầu mối; hoàn thành 2 trạm biến áp công suất 1.000 kVA, 1 trạm công suất 560 kVA phục vụ thi công; lắp đặt 2 trạm trộn bê tông… Hoàn thành công tác thi công đắp đê quây dọc (giai đoạn 1) phía bờ phải; đổ bê tông hệ thống tường phân dòng, hệ thống tường chắn cát; đào hố móng kênh dẫn dòng, đập dâng bờ phải. Cạnh đó là hoàn thành việc phá dỡ đê quây dọc (giai đoạn 1), đắp đê quây (giai đoạn 2) phía bờ trái và đang triển khai thi công xây dựng trên toàn tuyến đập tràn, nhà máy, với khối lượng đạt trên 75%.

- Về thiết bị, dự án đã gia công chế tạo các thiết bị cơ khí thủy công đạt khoảng 700 tấn; nhập khẩu và vận chuyển tới công trường 2 lô hàng thiết bị cơ điện (khoảng 120 tấn); lắp đặt 4 bộ khe van cửa nhận nước, 8 bộ khe lưới chắn rác, khe gầu vớt rác, 4 bộ khe van hạ lưu nhà máy, 3 bộ khe van đập tràn cho 3 khoang tràn giáp nhà máy.

- Còn đối với dự án Thủy điện Nậm Củm 4, tiến độ đã không thể hoàn thành năm 2019 và thời gian hoàn thành dự kiến vào quý 2/2020.

- Hiện các nhà thầu đang khẩn trương hoàn thành đập đầu mối, nhà máy, đào hầm phụ 1 và đào ngầm hầm dẫn nước, tháp điều áp. Mặt khác, triển khai công tác lắp đặt các thiết bị thủy công cho các hạng mục công trình (buồng xoắn, đường ống áp lực, giáp nhà máy).

- Điều đáng lo ngại nhất của dự án Thủy điện Pắc Ma và Nậm Củm 4 là hiện vẫn chưa triển khai đầu tư xây dựng trạm biến áp 220/110 kV Mường Tè và đường dây 220 kV từ Mường Tè đến trạm biến áp 500 kV Lai Châu (do vướng mắc trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng) làm ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành, cũng như thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế.

5/ Dự án Thủy điện Mỹ Lý (180 MW) và Thủy điện Nậm Mô (90 MW) - Nghệ An:

- Theo tiến độ của quy hoạch điện VII (điều chỉnh) 2 dự án này sẽ đưa vào vận hành năm 2021. Tuy nhiên, hiện “chưa thể xác định được thời gian vận hành” do đến nay vẫn đang chờ Chính phủ Lào ký kết Hiệp định với Việt Nam.

- Theo Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phát triển Điện lực, thì đây là cản trở “quá lớn” với nhà đầu tư, dù hoàn thành các thủ tục và công việc chuẩn bị đầu tư.

- Cụ thể, trong những năm qua, phía Việt Nam đã hoàn thành các thủ tục và các hạng mục của dự án như sau:

      1/ Điều chỉnh quy hoạch đất rừng phòng hộ, sang quy hoạch đất rừng sản xuất.

      2/ Phê duyệt quy hoạch ngành.

      3/ Phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực quốc gia.

      4/ Quy hoạch tổng thế di dân tái định cư.

      5/ Khảo sát địa chất, địa hình.

      6/ Thiết kế kỹ thuật.

      7/ Đánh giá tác động môi trường trên lãnh thổ Việt Nam và lãnh thổ Lào.

      8/ Thu xếp vốn vay nước ngoài v.v…/.

BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

 

 

 

 

Các tin khác